Đặc điểm sản phầm:
- Giống mít nghệ cao sản có tên là Artocarplus hectorophyllus, là giống mít chịu khô hạn tốt, chống được giông bão. Trái to, múi thơm, giòn, ngọt, thích hợp ăn tươi hoặc chế biến xuất khẩu rất tốt, ngoài ra có thể sử dụng làm thức ăn chăn nuôi và lấy gỗ...
- Giống mít này dễ trồng, ít bệnh, tỉ lệ cơm cao 40 – 48 % , màu vàng tươi, tỷ lệ đậu trái cao, trái to nhất khoảng 3,5kg. Lúc mới trồng mỗi cây chỉ được khoảng 50 trái nhưng đến nay đã được 400-500trái/cây. Loại mít này cho quả cả 3 vụ/năm, ăn múi rất thơm, cơm dày, hạt lép.
Lợi ích kinh tế:
- Đây là loại cây ăn trái có nhiều triển vọng, vì nó vốn là cây ăn trái nhưng mang những đặc tính của cây rừng nên có thể góp phần thắng lợi cho chương trình trồng 5 triệu ha rừng của Chính Phủ.
- Hiện giống mít cao sản đang được trồng nhiều ở Xã Mỹ Phú, huyện Thủ Thừa – Tỉnh Long An. Mít nghệ cao sản thường được trồng vào đầu mùa mưa, nếu chủ động nguồn nước có thể trồng vào tháng 3- 4 dương lịch.Trồng mít cao sản khoảng 3 năm là có trái và 4-5 năm là cây cho trái ổn định, thu hoạch 20-30 triệu đồng/ha.
- Các hộ nông dân ở đây đang mở rộng diện tích canh tác, trồng nhiều vườn ươm cây giống. Cùng với các biện pháp kỹ thuật và biện pháp kết áp dụng mô hình: xung quanh bờ bao trồng mít cao sản, dưới ao thả cá, trên nuôi gà, vịt, heo… Đây cũng là bước thử nghiệm về mô hình”trồng – chăn - thả” kết hợp để tăng hiệu quả kinh tế trên một diện tích đất.
Kỹ thuật chăm sóc:
1.Thời vụ trồng:trồng vào đầu mùa mưa, tuy nhiên mít có thể trồng quanh năm nếu chủ động được nguồn nước.
2. Làm đất:đất bằng phẳng phải xẻ mương rảnh sâu ít nhất 30-40 cm (tùy từng nơi cung cấp nước) để chống úng vào mùa mưa. Làm hốc rộng 40 x 40 x 40 cm và đắp mô cao 40 x 50 cm. Có độ dốc cao. Mỗi hốc có thể trộn 0,5 kg vôi bột, 0,3 phân Super lân, 10 kg phân chuồng.
3. Khoảng cách trồng:cây cách cây 5 m, hàng cách hàng 6m. Một ha trồng khoảng 330 cây. Trồng thưa: cây cách cây 6m hàng cách hàng 7m. Một ha trồng khoảng 210 cây.
4. Trồng:đào lỗ sâu và to hơn bầu cây đôi chút. Dùng dao, kéo cắt đáy bầu và cắt bò đuôi chuột (rễ cọc) bị xoắn lại. Đặt bầu vào lỗ đã mốc sẳn và rút nhẹ túi đựng bầu ra bỏ và lắp đất lại. Nếu đất khô phải tưới cho cây ngay.
5. Đậy gốc giữ ẩm:khi trồng xong phải dùng vật liệu che phủ gốc, chống xói mòn vào mùa mưa và giữ ẩm vào mùa khô. Quanh gốc nên tủ rơm rác, cỏ khô theo hình vòng tròn đường bán kính l mét - Lớp rác phải dày 20 cm. Tủ rác rất lợi vì chống cỏ, giữ ẩm, giữ cho mặt đất mát, chất mùn, phân bón chậm phân hủy, rửa trôi. Mỗi cây phải cắm một cọc vững buộc thân cây mít mới trồng vào để gió không lay gốc làm đổ cây.
6. Tưới tiêu:sau khi trồng cần tưới thường xuyên 2-3 ngày /lần. Sau đó, có thể tưới 5-7 ngày /lần. Từ năm thứ 2 về sau tưới cho cây vào giai đoạn mới bón phân và những tháng quá khô hạn, mít rất sợ úng nên vào mùa mưa lũ, phải kiểm tra mương cống rãnh và có kế hoạch chống úng.
7. Làm cỏ:khi đã tủ rác quanh gốc cỏ mọc ít đi hoặc không có cỏ. Nếu không tủ rác, cỏ mọc nhiều phải làm cỏ, khi làm cỏ nên chú ý những rễ ăn nổi, nếu làm đứt rễ lúc trái đương lớn thì dinh dưỡng bị xáo trộn như trái nhỏ, chất lượng giảm có khi thành mít sượng, không ăn được.
8. Tỉa cành tạo tán:giúp cây tăng trưởng cân đối, loại bỏ các cành sâu bệnh, cành vượt, tạo cho cây thông thoáng. Việc tiến hành tạo tán khi cây cao khoảng 1m trở lên, tỉa cành tạo tán 2-3 lần/năm đối với cây còn nhỏ, cây lớn mỗi năm một lần sau khi thu hoạch trái xong.
9. Bón phân:
- Phân hữu cơ: tùy thuộc vào độ tuổi của cây, thời gian vận dụng cơ bản 5-20 kg/cây/năm. Thời kỳ cây cho trái bón 25-40 kg/cây/năm.
- Bón phân hoá học: tùy theo yêu cầu dinh dưỡng của cây. Ở vùng đất phù sa nhiều mùn bã hữu cơ có độ pH thấp phải bón nhiều lân và vôi. Đất cát xám, đất gò đồi ở Miền Đông cần thiết Kali và đạm. Dùng phân NPK 16-16-8 trong thời kỳ cây còn nhỏ. Năm thứ nhất bón 300g. Năm thứ hai bón 500g, chia ra làm 4 lần. Năm thứ ba bón 1-1,5 ký NPK. Năm thứ tư bón 2 ký NPK.
- Khi ra trái nhất thiết phải có phân Kali, không có Kali hay thiếu Kali phải bón tro thay nhưng lượng tro phải lớn. Từ khi mít đã có trái chỉ bón phân 2 lần một năm, vào cuối vụ thu hoạch rộ và đầu vụ mùa.