Bồ kết là gì?

Bồ kết còn gọi là bồ kếp, tạo giác, tạo giáp, chùm kết, trư nha tạo giác. Tên khoa học là Fructus Gleditschiae, thuộc họ Vang (Caesalpiniaceae). Cây bồ kết có nhiều vị thuốc tốt thường dùng trong việc phòng và điều trị bệnh như:
– Quả hay tạo giác (Fructus Gleditschiae) là phần quả chín khô. Khi dùng, người bệnh cần phải bỏ hạt, dùng sống; ngâm nước cho thật mềm, sấy khô hoặc đốt thành than tồn tính, tán bột.
– Hạt hay tạo giác tử (Semen Gleditschiae) là hạt lấy từ quả chín đã phơi hay sấy khô.
– Gai hay tạo thích, tạo giác thích (Spina Gleditschiae) là gai hái ở thân cây đem về phơi hoặc sấy khô (có thể thái mỏng). Trong gai chứa các hoạt chất kháng khuẩn, chống nấm nên nước có tác dụng ức chế tụ cầu vàng.
Bồ kết có những tác dụng gì?
Theo Đông y, bồ kết vị cay mặn, có độc, tính hơi ôn, vào 2 kinh Phế, Đại tràng. Vị thuốc này có tác dụng sát trùng, tiêu đờm, thông khiếu, kích thích hắt hơi. Do đó, thường được dùng để phòng và điều trị các chứng trúng phong, cấm khẩu, sáng mắt, ích tinh, tiêu thực, đờm suyễn.
Tạo giác cũng phòng và hỗ trợ điều trị nhiều chứng bênh như: trúng phong cấm khẩu, méo miệng do trúng gió; co giật, kinh giản, đờm ngược lên nghẹt cổ, miệng sùi đờm dãi; trẻ nhỏ bị chốc đầu, rụng tóc; trẻ nhỏ chốc đầu, lở ngứa do nấm; sâu răng, nhức răng; nghẹt mũi, khó thở hoặc viêm xoang; giảm đường huyết…
Ngoài ra, hiện nay nhiều bệnh viện cũng hướng đến việc sử dụng các dược liệu tự nhiên, an toàn như bồ kết để thông khoan, chữa bí đại tiện, tắc ruột có kết quả và chứng không trung tiện được sau khi mổ chữa. Vị thuốc này có thể dùng cho cả trẻ em và người lớn bởi tính hiệu quả cao (cho hiệu quả sau khoảng 5 phút sử dụng).
Dùng bồ kết như thế nào để đạt hiệu quả tối ưu?
Trị trúng phong cấm khẩu: Người bệnh nên dùng quả tạo giác bỏ hạt, lấy vỏ nướng cháy nghiền thành bột (hoặc nướng cháy rồi bỏ hạt), ngày uống 0,5 – 1g. Nếu sắc thì dùng khoagr 5 – 10g quả bồ kết bỏ hạt rồi sắc lấy nước uống.
Trị méo miệng do trúng gió: Với chứng bệnh này nên dùng khoảng 10 quả bồ kết nướng giòn, tán thành bột mịn, trộn với dấm gạo tốt để thành hỗn hợp sền sệt. Sau đó căn cứ vào miệng méo về bên trái thì đắp má bên phải và ngược lại. Khi nào thuốc khô thì hòa lại với giấm khô cho dẻo để đắp.
Trị co giật, kinh giản: Nếu mắc các chứng co giật, kinh giản, miệng sùi đờm dãi, đờm ngược lên nghẹt cổ hoặc hen suyễn, đờm kéo lên cổ, khò khè khó thở thì nên dùng tạo giác đốt tồn tính, tán bột cùng với phèn phi lượng bằng nhau. Trộn đều cả 2 nguyên liệu, hòa vào nước uống. Mỗi lần khoảng 0,5g, ngày uống 3 – 6g cho đến khi tiêu hết đờm là được.
Trị trẻ nhỏ bị chốc đầu, rụng tóc hoặc chốc đầu, lở ngứa do nấm: Lấy tạo giác đốt tồn tính, tán thành bột mịn. Rửa sạch vết chốc, rồi đắp bột than bồ kết lên. Người bệnh cũng có thể ngâm bồ kết vào nước cho các hợp chất thấm ra nước để rửa sạch chỗ tổn thương. Sau đó lấy bột bồ kết rắc vào.
Trị nghẹt mũi, khó thở hoặc viêm xoang: Lấy quả bồ kết, vừa đốt vừa xông khói vào mũi để kích thích hắt hơi, tăng cường lưu thông mũi xoang để mũi thông thoáng và dễ thở hơn.
Trị sâu răng, nhức răng: Tạo giác tán nhỏ, đắp vào vùng chân răng đến khi chảy nước dãi thì nhổ đi. Hoặc dùng bột bồ kết (bồ kết đốt tồn tính nghiền nhỏ) nhét vào chân răng. Hoặc lấy quả bồ kết nướng cháy đen, bẻ thành miếng nhỏ rồi ngâm với rượu trắng theo tỷ lệ 1 phần bồ kết, 4 phần rượu. Ngâm qua 1 ngày, 1 đêm thì mang thuốc ra ngậm.